Thuật ngữ “nhà tham vấn” (hay Nhà Tư vấn tâm lý)được hiểu đơn giản là “những chuyên gia thực hành tham vấn” . Thân chủ (hay Khách hàng) là người có vấn đề cần được tham vấn. Khi đến với nhà tham vấn, đa phần họ ở trong trạng thái hoang mang, không ý thức được tâm trạng cũng như cảm xúc của mình.
1. Khái niệm nhà tư vấn tâm lý (Nhà tham vấn)
Trong nhiều năm qua, thuật ngữ “nhà tham vấn” được hiểu đơn giả là “những chuyên gia thực hành tham vấn” (professional who practices counseling). Trong những năm gần đây, nhà tham vấn được hiểu là “người giúp đỡ cho các thân chủ khi họ gặp những vấn đề khó khăn bằng cách khơi gợi những tiềm năng trong thân chủ để thân chủ tự giải quyết vấn đề của mình” Nhà tham vấn khi thực hành tham vấn cho thân chủ phải đảm bảo là những người thân chủ có đủ những phẩm chất nghề nghiệp, không gây tổn thương cho thân chủ, không đẩy thân chủ đi đến đối đầu, không đi ngược lại lợi ích của thân chủ, khích lệ, cổ động họ tự tìm tiềm năng của bản thân; giúp họ nói ra những vướng mắc trong long, giúp họ nhận thức tốt hơn về bản thân, làm cho họ mạnh lên, yêu mình hơn. Nhà tham vấn không được phép bày vẽ cách giải quyết vấn đề nho thân chủ.
Theo Carl Rogers, nhà tham vấn phải làm cho thân chủ nhận thức được mình là người “đáng tin cậy, chắc chắn, trung kiên”, nhà tham vấn phải diễn tả “đủ thông suốt” lời nói, hành vi để bộc lộ được mình là rất trong sang, nhà tham vấn phải thể hiện được cảm giác, cảm quan của mình để thân chủ nhận ra họ “tích cực”. Nhà tham vấn phải có nhân cách đủ mạnh để “biệt lập” với thân chủ và đủ an tâm để cho phép thân chủ cảm thấy như là không bị đe doạ; nhà tham vấn luôn luôn coi thân chủ là người đang trong “Tiến trình trở thành” chứ không bị trói buộc vào quá khú của anh ta.
2. Khái niệm thân chủ và vấn đề của thân chủ
Để hiểu khái niệm thân chủ và vấn đề của họ, chúng ta cần hiểu thế nào là con người cân bằng.
2.1. Con người cân bằng
Con người cân bằng, theo nhiều tác giả khác nhau mô tả khác nhau trên nhiều bình diện khác nhau.
Trên bình diện thể chất, con người cân bằng có một cơ thể khoẻ mạnh có một thể trạng tốt, thích thú cố gắng về thể xác và chịu đựng được mệt nhọc. Không thể có sự cân bằng tâm trí trong một thể xác ốm yếu. Tác giả La Tris Juvenal đã nói: “một tâm hồn lành mạnh trong một cơ thể lành mạnh”. Sức khoẻ tâm lý và sức khoẻ cơ thể là hai trụ cột của sự tinh thông của con người.
Trên bình diện tình dục và cảm xúc: con người cân bằng là con người có thể thiết lập một cách hài long mối quan hệ thân tình với những người khác. Trong khi quan tâm không thái quá đến thoả mãn những nhu cầu của mình con người biết chú ý và nhạy cảm với những nhu cầu của đối tác cùng với mình.
Trên bình diện trí năng, con người cân bằng là con người thông minh để có thể suy nghĩ và hành động một cách hữu hiệu. Họ biết những năng lực và năng khiếu của mình và sử dụng nguồn lực đó một cách tốt nhất cho những hoạt động sinh lợi. Họ tiến bộ thường xuyên trong những luyện tapạ bằng cách cố gắng đạt được mục đích đã ấn định trong một thời gian hợp lý. Họ có óc tưởng tượng và thích đi tìm những giải pháp khác ngoài những giải pháp truyền thống đã được đề xuất.
Trên bình diện đạo đức, con người cân bằng luôn luôn thắm đượm sâu xa một sự quan tâm đến tính chất khách quan. Họ có khuynh hướng tin vào sự lý giải của mình hơn những đánh giá của người khác hay của truyền thống đại chúng. Họ luôn quyết định có tuân theo những chuẩn mực xã hội hay không một cách tự nguyện. Mặc dù họ có một ý chí vững mạnh nhưng không phải vì thế mà họ trở nên bướng bình. Họ luôn sẵn sang thừa nhận những sai lầm của mình.
Trên bình diện xã hội, con người cân bằng luôn cảm thấy dễ chịu khi đối mặt với những người khác và cảm giác được họ chấp nhận. Những phản ứng của họ ít khi có sự tính toán và sự tự nhiên này giúp họ chuẩn định được dễ dàng những phản ứng của mình đối với người đồng cấp như đối với người trên, kẻ dưới.
Trên bình diện nhân cách, người cân bằng là một con người lạc quan, yêu cuộc sống. Thường họ có tâm trạng vui vẻ, hôn nhiên. Đó là một nhân cách chin chắn, tự chủ và thực tế biết chấp nhận những trách nhiệm, không từ chối trước những nguy nan.
Trên bình diện cảm xúc, họ tương đối ổn đinh, không quá tự tin, khôn g quá lo lắng, biết đương đầu với những sự không may và không biểu lộ sự thất vọng quá đáng. Nhìn xung quanh, con người cân bằng thích đạt được những gì họ muốn bằng chính cố gắng của mình hơn là bằng những đòi hỏi hoặc là bằng những hành vi xảo trá. Hơn nữa, họ còn biết giữ gìn sự tươi tỉnh khiến họ vô tư, được người khác than phục. Cuối cùng, họ yêu mến bản thân và nhìn mình với mối thiện cảm trong khi vẫn giữ được sự hóm hỉnh để tránh rơi vào tình trạng thái quá nghiêm nghị
Là người bìnht thường, người cân bằng cho phép mình sống với những sai sót của mình, với những ứng xử không phải lúc nào cũng thích nghi với những nhu cầu mà người ta làm thoả mãn một cách tàm tạm và cố gắng dự phòng những lo âu một cách tốt nhất, bằng cách sử dụng những cơ chế tự về khác nhau hoặc phát triển một số nét tính cách được chấp nhận. Điều quan trọng là càng có ý thức tốt hơn. Do không đạt được sự cân bằng đầy đủ, họ vẫn giữ được thía độ phê phán trước những phản ứng của mình và có khả năng chế giễu chúng nếu gặp dịp.
Hiểu được như thế nào là người cân bằng, nguời không cần đến sự trợ giúp tham vấn, chúng ta xem xét người không cân bằng - người có nhu cầu ham vấn mà ta gọi là thân chủ
2.2. Thân chủ
Về mặt tự nhiên, thân chủ là người có vấn đề cần được tham vấn. Khi đến với nhà tham vấn, đa phần họ ở trong trạng thái hoang mang, không ý thức được tâm trạng cũng như cảm xúc của mình. Họ biết rõ sự kiện nhưng không vượt qua được cảm xúc. Họ có nhu cầu bộc lộ những điều này phụ thuộc vào ngươờ tham vấn có tạo ra cho họ điều kiện bộc lộ hay không.
Trong tham vấn chuyên nghiệp, thân chủ được nhìn nhận là người chủ động tích cực, tự giải quyết được vấn đề của mình với sự trợ giúp của nhà tham vấn. Theo Carl Rogers: “Thân chủ là chuyên gia giỏi nhất về vấn đề của họ”. Vì vậy, quá trình tham vấn phải đặt hoàn toàn tin tưởng vào thân chủ. Như thế, tham vấn đã giúp cho thân chủ tự giải quyết vấn đề của mình.
2.3. Vấn đề của thân chủ
Các cá nhân được coi là bình thường – có vấn đề - là “những người ngoài chuẩn mực và ứng xử ngược với những giá trị, những thói quen hoặc những thái độ của người khác”, “Biểu lộ sự tuyệt vọng bằng những tình cảm quá mức buồn phiền hoặc giận dữ qua những sợ hãi không có cơ sở thực tế hoặc qua một trạng thái trầm nhược do một sự kiện gây chấn thương mà họ tỏ ra không thể vượt qua được”, “Thể hiện ở trạng thái con người bất lực không vượt qua được những căng thẳng tâm lý của cuộc sống khiến họ phản ứng bằng cách thu mình lại hoặc rút lui thuần tuý và đơn giản là làm họ xa rời con đường giao tiếpthông thường.
Các cá nhân có “vấn đề” trở thành thân chủ của tham vấn khi họ luôn cảm thấy không hài long trong một mối quan hệ, sự kiện nào đó; luôn gây bất bình cho những người xung quanh; ở họ xuất hiện những cá tính hiếm thấy; có những hành động không xảy ra trong tiền lệ; cảm thấy buồn chán, lo âu, căng thẳng, đau khổ, sợ hãi lặp đi lặp lại, nói nhiều, lảm nhảm; biểu hiện phi lý trong nhận thức cá nhân, thể hiện trong hoạt động mà ngươờ khác thấy không bình thường; khó thích nghi hoặc không thích nghi; hay luôn luôn hành động theo cách có ảnh hưởng đến mục tiêu hoạt động của mình, hoạt động của những ngườixung quanh.
Nguyên nhân của những “vấn đề” này có thể từ hoàn cảnh khách quan (những xáo trộn trong cuộc sống, nghề nghiệp, nhu cầu, giai đoạn chuyển tiếp về lứa tuổi và tâm sinh lý, những áp lực,…), có thể từ chủ quan (những người thụ dodọng, thiếu nghị lực trong cuộc sống, hành động ngẫu nhiên không có mục đích, thiếu khả năng chịu trách nhiệm, hay đổ lỗi cho người khác, thiếu sự cân bằng trong đời sống tình cảm, lý trí hoặc rối loạn về tình cảm, lý trí, hành động; có vấn đề trong mối tương giao với người khác, không thoả mãn với bản thân và người khác, người quá cầu toàn, mặc cảm, không nhận biết mình, không chấp nhận mình, chấp nhận người khác, chấp nhận hoàn cảnh..